Tứ thập nhị chương kinh là danh từ chỉ tám bộ kinh, được nhắc tới trong tác phẩm kiếm hiệp Lộc đỉnh ký của cố nhà văn Kim Dung. Đây được xem là bảo vật và là đối tượng săn lùng của nhiều cá nhân, tổ chức chính trị.

Lộc đỉnh ký là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của cố nhà văn Kim Dung. Cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp này bắt đầu xuất bản ngày 24 tháng 11 năm 1969 trên Minh Báo và kéo dài trong 2 năm và 11 tháng cho đến ngày 23 tháng 9 năm 1972. Đây là bộ tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi vì văn phong khác lạ, nhân vật chính và chủ đề phản võ hiệp. Tuy nhiên nó được Kim Dung cũng như một số bộ phận độc giả công nhận là cuốn tiểu thuyết hay nhất.

Bạn đang xem: Tứ thập nhị chân kinh

Truyện lấy bối cảnh thời Khang Hy nhà Mãn Thanh. Thiên hạ lúc này đã hoàn toàn nằm trong tay người Mãn, đời sống dân chúng bắt đầu đi vào quĩ đạo sau thời gian dài u tối, loạn lạc, chém giết. Tuy nhiên, vẫn còn đó những tổ chức phản Thanh phục Minh nuôi chí khởi nghĩa.

Trương Vệ Kiện vai Vi Tiểu Bảo trong phim Tiểu Bảo và Khang Hy 2000.

Điểm đặc biệt của Lộc đỉnh ký ở chỗ nhân vật chính xuất thân hèn kém và hoàn toàn không phải người chính trực. Vi Tiểu Bảo là một nhân vật có khắc họa khá đặc biệt, tuy không biết chữ, chẳng biết võ công, nhưng nhờ có miệng lưỡi trơn như mỡ, óc thực dụng, tính ích kỷ, tiểu nhân điển hình cộng với đầu óc linh hoạt ứng biến nhanh nhạy mà hắn đạt được nhiều thành công, danh lợi. Vi Tiểu Bảo có những nét hao hao giống những nhân vật chính mà Kim Dung đã dàn dựng: trọng tình nghĩa bạn bè, bị đưa đẩy vào những tình thế tiến thoái lưỡng nan, yêu một cuộc sống bình dị... nhưng cũng bao gồm những tính khác như tiểu nhân gian xảo, mưu mô thủ đoạn...

Ngoài ra, người đọc cũng ấn tượng mạnh bởi những tranh đoạt quyền lực trong Lộc đỉnh ký được tác giả cụ thể hóa vào sự tranh đoạt tám cuốn Tứ thập nhị chương kinh. Tám cuốn kinh này chứa đựng trong nó bí mật dẫn tới kho tàng khổng lồ và long mạch của người Mãn nằm trên núi Lộc Đỉnh.

Tứ thập nhị chương kinh vốn chỉ là một bộ kinh Phật.

Tứ thập nhị chương kinh vốn chỉ là một bộ kinh Phật và được các kỳ chủ quân Bát kỳ người Mãn Châu làm ra tám bản. Năm xưa khi quân Mãn Thanh từ ngoài Sơn Hải quan tiến vào Trung Nguyên, trên đường đi đánh giết cướp bóc, gây ra những vụ thảm sát dã man như Dương Châu thập nhật (chém giết cướp bóc suốt 10 ngày ở Dương Châu), Gia Định tam đồ (thực hiện 3 lần tàn sát cả thành Gia Định),...Vì lúc đó người Mãn không nghĩ sẽ chiếm được giang sơn của người Hán, Nhiếp chính Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn đã cùng 8 vị kỳ chủ thương lượng rồi quyết định vận chuyển số tiền tài bảo vật cướp được lên phía đông bắc Trung Quốc rồi chôn ở dưới chân núi Lộc Đỉnh, phòng hờ lúc người Mãn không giữ nổi giang sơn hay bị người Hán đánh đuổi thì con cháu có thể dựa vào số tài vật đó mà tiếp tục sống. Vị trí đến chỗ kho báu được vẽ vào một tấm da dê, tấm da dê sau đó được cắt thành nhiều mảnh rồi chia ra giấu trong bìa của tám cuốn Tứ thập nhị chương kinh, mỗi cuốn được một vị Kỳ chủ Bát kỳ bảo quản.

Bí mật này ngoài hoàng đế Thuận Trị, Hiếu Trang Hoàng thái hậu và Đa Nhĩ Cổn thì không ai khác được biết. Tám vị kỳ chủ đương thời tuy biết nhưng không truyền lại bí mật này cho con cháu. Thay vào đó, họ nói với con cháu rằng trong tám cuốn kinh có giấu một bí mật trọng đại, dẫn đến "long mạch" của vương triều Đại Thanh. Nếu "long mạch" bị tổn hại thì vận nước của người Mãn Châu cũng sẽ hết. Điều này nhằm ngăn chặn các quý tộc đời sau đi tìm kho báu, thay vào đó họ sẽ dùng tính mạng của mình để bảo vệ bí mật.

Tuy nhiên, theo lời kể của Đào Hồng Anh, năm xưa sư phụ bà đột nhập vào phủ một vị Kỳ chủ Bát kỳ đã nghe lóm được bí mật. Vị kỳ chủ này say rượu đã tiết lộ bí mật trong kinh thư cho một người tiểu thiếp nghe, người thiếp này vốn là người của Thần Long giáo. Vì thế bí mật này đã lọt ra ngoài, dẫn đến việc vô số cá nhân và tổ chức tranh giành cướp đoạt lẫn nhau.

Trong bối cảnh của cậu chuyện, có ít nhất sáu thế lực tìm mọi cách để cướp cho được bí mật trong tám cuốn Tứ thập nhị chương kinh. Một là vua Khang Hy, con vua Thuận Trị. Hai là con gái vua Sùng Trinh triều Minh, muốn trả thù cho cha. Ba là bọn Thần Long giáo, một giáo phái bí mật thông đồng với người La Sát (nước Nga La Tư).

Thiên Địa hội muốn đoạt Tứ thập nhị chương kinh để phá được long mạch của nhà Thanh nhằm đuổi người Mãn Châu ra khỏi Trung Quốc. 

Bốn là Thiên Địa hội, một tổ chức chống triều đình Khang Hy do Trần Vĩnh Hoa làm tổng lý. Năm là Ngô Tam Quế, phản thần của triều Minh, được nhà Thanh phong cho tước Bình Tây vương, trấn vùng Vân Nam. Sáu là bọn Lạt ma Tây Tạng do Tang Kết cầm đầu.

Mỗi thế lực đều tin rằng tấm bản đồ giấu trong tám bìa sách có bí mật riêng. Khang Hy muốn có để đốt đi, vì khi Khang Hy gặp được lão hoàng gia Thuận Trị ở núi Ngũ Đài. Thuận Trị đã kể cho Khang Hy sự thật về Tứ thập nhị chương kinh và cũng dặn Khang Hy rằng nếu sau này người Hán có nổi dậy mà đánh được người Mãn ra khỏi quan thì người Mãn đi từ đâu hãy về lại đó. Khang Hy tuy vâng dạ nhưng không cho là đúng. Ông nghĩ rằng giang sơn Đại Thanh thành lập mấy mươi năm đang được củng cố, nếu để người Mãn biết rằng sau lưng có một bảo tàng to lớn như vậy thì vì nghĩ có đường lui người Mãn khi chiến đấu sẽ không hết sức, chính vì thế khả năng bị đánh đuổi càng cao. Khang Hy quyết định tiêu hủy tám cuốn kinh thư cùng tấm bản đồ, tự đoạn tuyệt đường lui để tướng sĩ dốc lòng chiến đấu bảo vệ giang sơn Đại Thanh.

Con gái vua Sùng Trinh Chu Mỹ Xúc - Trường Bình công chúa - và Thiên Địa hội muốn phá được long mạch của nhà Thanh nhằm đuổi người Mãn Châu ra khỏi Trung Quốc. Thần Long giáo tin rằng bản đồ vẽ kho vàng... Cuối cùng cả tám cuốn Tứ thập nhị chương kinh lọt hết vào tay Vi Tiểu Bảo.

Cuối cùng cả tám cuốn Tứ thập nhị chương kinh lọt hết vào tay Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo lấy hết các mảnh da dê nhỏ trong tám cuốn kinh sai Song Nhi kết lại thành một bản đồ hoàn chỉnh. Hắn giữ lại bản đồ trong mình còn các pho Tứ thập nhị chương kinh thì được may bìa lại để biếu cho vua Khang Hy. Tuy đã có đầy đủ tấm bản đồ kho báu lấy từ tám cuốn Tứ thập nhị chương kinh, Vi Tiểu Bảo vẫn quyết định không đi tìm vì y sợ đào vào kho báu sẽ làm đứt long mạch của người Mãn Châu, hại chết Khang Hy.

Còn trong phim Tiểu Bảo và Khang Hy, Vi Tiểu Bảo sau khi có đầy đủ tấm bản đồ kho báu đã đi kiếm nhưng chỉ là một kho tàng trống không, sau đó Vi Tiểu Bảo đã lừa Ngô Tam Quế vào đó để hại chết y. Sau này Khang Hy cho Vi Tiểu Bảo biết sau khi Mãn Thanh nhập quan đã chuyển hết kho tàng vào ngân khố, nên chỉ còn kho tàng trống rỗng.

PHẬT NÓI KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNGHậu Hán, Sa-môn Ca Diếp Ma Đằng Trúc Pháp Lan Đồng Dịch
Thanh, Tục Pháp Thuật | Thánh Tri Phỏng Việt Dịch (Vạn Tân Toản Đại Nhật Bản Tục Tạng Kinh Vol. 37, No. 671)

Lời Tựa

*
*
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rãi ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung Quốc và Việt Nam từ xưa đến nay. Tại sao thế? Bởi vì Kinh này chứa đầy những lời dạy hay, ngắn gọn, dễ hiểu, và cần thiết, được đề cập ở trong các hệ Kinh A-Hàm và Nikaya để nhằm nhắc nhở và khuyến khích những người xuất gia biết cách tu và sống đúng Phạm hạnh. Đặc biệt Kinh này cảnh tỉnh người xuất gia khá nhiều về ái dục. Phải chăng mục đích của các Tổ soạn bài Kinh này là vì muốn chấn hưng Phật giáo và chỉnh đốn hàng ngũ tăng chúng trong những thời loạn đương thời?

Ví dụ như lời dạy ở chương 1:

“Phật dạy từ bỏ người thân đi xuất gia, tâm thức thông suốt tận nguồn gốc (Bản Tâm), thấu rõ pháp Vô Vi, nên được gọi là Sa-môn. Họ thực hành 250 giới, khi tiến khi ngưng đều ở trong sự thanh tịnh, thực hành đạo hạnh của bốn Chân Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo), thành A-la-hán. <…> Đoạn trừ ái dục cũng như chặt đứt tứ chi, không còn dùng lại nữa.

Hoặc chương 2:

“Phật dạy cạo bỏ râu tóc làm bậc Sa-môn, là người thọ nhận Đạo Pháp, từ bỏ tiền của thế gian, đi khất thực chỉ nhận đủ dùng, giữa ngày ăn một bữa, nghỉ dưới gốc cây một đêm. Hãy thận trọng đừng có nhiều lần, vì ái dục khiến cho con người bị ngu mê.

Hoặc chương 17:

“Phật dạy người ôm giữ lòng ái dục thì chẳng thấy được Đạo, giống như nước lắng trong mà lấy tay khuấy lên, thì mọi người cùng đến nhìn xuống nước chẳng thấy được bóng hình của họ. Người bị ái dục xáo trộn, làm cho cấu bẩn trong tâm nổi dậy, nên không thấy được Đạo. Những bậc Sa-môn các Thầy phải xả bỏ ái dục, sự dơ bẩn của ái dục sạch hết rồi thì Đạo mới có thể thấy được vậy.”

Hoặc chương 26:

“Phật dạy ái dục đối với người cũng giống như cầm bó đuốc mà đi ngược gió, tất sẽ có họa cháy tay. Thiên thần hiến ngọc nữ cho Phật, muốn làm loạn tâm ý của Phật. Phật dạy: “Những túi da bọc các đồ dơ bẩn kia, các ngươi đến làm gì? Hãy

đi! Ta không cần.” Thiên thần càng thêm kính trọng, nhân đó hỏi về ý đạo. Phật giải nói xong thì thiên thần liền đắc được quả Tu-đà-hoàn.”

Như vậy cho thấy chư Tổ thời xưa đã trích chọn những lời hay ý đẹp của Phật trong kho tàng Kinh Điển Phật Giáo để toát yếu làm ra bài Kinh Tư Thập Nhị Chương này, hầu giảng dạy cho những người xuất gia biết rõ đường lành, giữ Phạm hạnh thanh tịnh, và đi trên con đường giác ngộ giải thoát. Khi trích chọn và toát yếu ra những lời dạy của Phật trong các Kinh khác như A-Hàm và Nikaya để tạo thành bài Kinh này thì vừa đúng 42 câu. Có lẽ do vậy mà các ngài gọi đây là Kinh Bốn Mươi Hai Chương, chứ không có tên gì đặc biệt. Giả như lúc trích chọn mà ít hơn hay nhiều hơn thì có lẽ bài này sẽ được gọi đúng theo số trích chọn đó mà không phải là Bốn Mươi Hai Chương.

Thêm nữa và rõ ràng hơn hết là vào cuối thời Bắc Tông, đầu thời Nam Tông có Thiền Sư Thủ Toại chú giải Phật Tổ Tam Kinh (Kinh Phật Nói Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Di Giáo, và Quy Sơn Cảnh Sách), để làm kim chỉ nam và căn bản nhập môn cho người học thiền vào thời bấy giờ. Cho thấy tầm quan trọng và sự lợi ích to lớn của kinh này đối với những vị xuất gia học đạo.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương được dịch và chú giải bởi những vị học giả danh tiếng qua nhiều thời đại sau đây:

1. Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Vol. 17, No. 784. Hậu Hán, Ca Diếp Ma Đằng Cộng Pháp Lan Dịch.

2. Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Vol. 39, No. 1794. Tống, Chân Tông Hoàng Đế Chú.

3. Vạn Tân Toản Đại Nhật Bản Tục Tạng Kinh, Vol. 37, No. 669. Tống, Thủ Toại Chú; Minh, Liễu Đồng Bổ Chú.

4. Vạn Tân Toản Đại Nhật Bản Tục Tạng Kinh, Vol. 37, No. 670. Minh, Trí Húc Trứ.

5. Vạn Tân Toản Đại Nhật Bản Tục Tạng Kinh, Vol. 37, No. 671. Thanh, Tục Pháp Thuật.

6. Vạn Tân Toản Đại Nhật Bản Tục Tạng Kinh, Vol. 37, No. 675. Minh, Đạo Bái Thuật.

7. Phật Tổ Tam Kinh, (Bản Biệt Hành, nhưng Kinh Tứ Thập Nhị Chương được dùng để chú giải ở Vạn Tạng Vol. 37, No. 669, bởi ngài Liễu Đồng thời Minh). Tống, Thiền Sư Thủ Toại chú.

Xem thêm: Người Hàn Sợ Bị Mời Cưới - 5 Cặp Đôi Đẹp Nhất Màn Ảnh Hàn Quốc Năm 2021

Dựa trên những bản dịch giải trên thì Kinh Tứ Thập Nhị Chương được chia ra làm hai bản chính. Một là Tứ Thập Nhị Chương Kinh trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Vol 17, No. 784 vào thời Hậu Hán. Đây là bản dịch được cho là sớm và xưa nhất trong các bản dịch của Kinh Tứ Thập Nhị Chương; và cũng như là một trong những bài kinh được dịch và truyền sang Trung Quốc đầu tiên. Tuy nhiên bản này có lẽ vì đã trãi qua nhiều triều đại từ thời Hậu Hán đến thời Bắc Tống, sự sao chép khắc in không được tốt nên văn từ thô sơ và rời rạc, khiến cho khó hiểu, nên không được phổ biến rộng rãi. Còn bản thứ hai, Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh là của Thiền Sư Thủ Toại vào thời Bắc Tống chú giải thì được lưu thông rộng khắp. Qua lăng kính

của Thiền và văn phong đời Tống nên ngài đã trau chuốt khiến cho bài kinh không những không mất đi ý chính và mục đích, mà còn làm cho bài kinh thêm phần sáng tỏ, lưu loát, thích đáng, và phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Có lẽ chính vì vậy mà bản của ngài dịch và chú giải được lấy làm tài liệu học hỏi nghiên cứu của các Tồng Lâm Tự Viện từ đó đến nay ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam. Thật vậy, các ngài Liễu Đồng, Đạo Bái, Trí Húc, và Tục Pháp đều dùng bản dịch của ngài Thủ Toại mà chú giải.