Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Đầu những năm 2000, khi tôi còn làm việc ở Lầu Năm Góc, các cựu binh bị thương trên chiến trường Iraq và Afghanistan thường xuyên đi xe buýt đến Bệnh viện Walter Reed ở Đông Bắc Washington, D.C., để nhận huy chương. Thật đau lòng khi phải chứng kiến những người đàn ông và phụ nữ trẻ này, nhiều người trong số họ đã vĩnh viễn mất đi mắt, tay, chân hoặc thậm chí tứ chi, được đẩy trên những chiếc xe lăn trong tòa nhà.

Bạn đang xem: Thế giới nói gì về chiến tranh việt nam

Là một nhà sử học quân sự được đào tạo chuyên về Chiến tranh Việt Nam, tôi không thể không nghĩ về cuộc chiến ấy khi nhìn các cựu binh từ từ đi xuống dọc hành lang Lầu Năm Góc. Và tôi không phải là người duy nhất. Nhiều cái tên nổi bật trong chính phủ, quân đội và truyền thông đã đem những cuộc chiến mới này so sánh với Chiến tranh Việt Nam, và thật ngạc nhiên khi có nhiều người cho rằng bài học thuở xưa chứa đựng hy vọng về một chiến thắng ở Iraq.Những người đưa ra lập luận này cho rằng nước Mỹ đã đến rất gần chiến thắng ở Việt Nam nhưng lại ném đi cơ hội của mình chỉ vì sự tiêu cực của giới báo chí, và kéo theo đó, là thất bại về ý chí chính trị ở quê nhà. Lập luận “chiến thắng bị bỏ lỡ” (lost victory) này bắt nguồn từ chính quyền Nixon và những người ủng hộ họ thời kỳ những năm 1970, sau đó nhận được sự chú ý đáng kể trong thập niên 1980 và 1990, khi nó được một nhóm các nhà sử học xét lại có ảnh hưởng, bao gồm Mark Moyar và Lewis S. Sorley III, nhắc đến.

Sử dụng gợi ý từ những người theo chủ nghĩa xét lại về chiến tranh Việt Nam, những người lạc quan về chiến tranh Iraq lập luận rằng tương tự như việc người Mỹ nghĩ rằng mình đang thua ở Việt Nam trong khi thực tế đang chiến thắng, thì chúng ta cũng chiến thắng ở Iraq bất chấp bằng chứng rõ ràng chỉ ra điều ngược lại. Những người lạc quan lập luận rằng vấn đề ở đây là giống như trong Chiến tranh Việt Nam, các học giả và chính trị gia không chỉ đơn thuần làm suy yếu sự ủng hộ của toàn dân cho cuộc chiến, mà còn cho kẻ thù của chúng ta hy vọng rằng họ có thể chiến thắng bằng cách chờ đợi người Mỹ mất đi ý chí tiếp tục cuộc chiến.

Kiểu lập luận này khiến tôi phải thất kinh bởi nó không khuyến khích một đánh giá thẳng thắn về chiến lược thất bại của Mỹ ở Iraq, nơi đã tạo nên “đám rước hàng tuần” của các cựu binh thương tật ấy. Và tôi cũng biết rằng các tiền đề lịch sử làm cơ sở cho nó đều cực kỳ thiếu sót. Nước Mỹ chẳng hề có “chiến thắng bị bỏ lỡ” nào ở Việt Nam cả; trên thực tế, chiến thắng có lẽ nằm ngoài tầm với ngay từ ban đầu.

Trong giới sử gia chuyên nghiệp có một sự đồng thuận rộng rãi rằng chúng ta thực sự không thể giành chiến thắng trong Chiến tranh Việt Nam. Ngay cả những người theo chủ nghĩa xét lại cũng phải thừa nhận tình trạng thiểu số của mình, mặc dù một số người cho rằng đó là bởi vì sự thiên vị chủ nghĩa tự do vốn cắm rễ sâu trong giới nghiên cứu lịch sử. Nhưng những nghi ngờ về khả năng Mỹ giành chiến thắng trong cuộc chiến hoàn toàn không chỉ giới hạn trong giới học giả dân sự. Người ta có thể dễ dàng tìm thấy chúng trong các công trình đã xuất bản của các nhà sử học quân sự chính thức như Tiến sĩ Jeffrey J. Clarke – người mà cuốn sách “Advice and Support: The Final Years, 1965-1973” của ông nhấn mạnh những vấn đề không thể chối bỏ đã dẫn đến thất bại chính sách và chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Sự bi quan cũng tràn ngập trong “Vietnam Declassified: The C.I.A. and Counterinsurgency,” một bộ sách giải mật chính thức của CIA, chắp bút bởi Thomas L. Ahern Jr., một sĩ quan CIA hoạt động tích cực khắp Đông Dương trong thời chiến.

Ngược lại, phe xét lại chủ yếu dựa trên khẳng định rằng thất bại của chúng ta ở Việt Nam về cơ bản là do tâm lý, và theo đó, chiến thắng đã có thể xảy ra nếu giới lãnh đạo chính trị biết cách duy trì sự ủng hộ của toàn dân đối với chiến tranh. Dù các yếu tố tâm lý và ủng hộ toàn dân là rất quan trọng, nhưng thái độ của người Việt Nam, chứ không phải người Mỹ, mới là điều quyết định. Ở Mỹ, ủng hộ toàn dân nhằm chống Cộng sản ở miền Nam Việt Nam đã khởi đầu mạnh mẽ rồi mới hạ nhiệt dần khi chiến tranh ngày một dai dẳng. Tuy nhiên, ở miền Nam Việt Nam, ủng hộ toàn dân cho cuộc chiến luôn nửa vời, và phần lớn (và ở một số vùng là đa số) dân chúng lại ủng hộ Cộng sản.

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tham nhũng, phi dân chủ và chia rẽ nội bộ – ngay cả dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, người bị ám sát trong cuộc đảo chính năm 1963, và dưới các phe phái quân sự sau nhiệm kỳ của ông – đã chứng tỏ mình không có khả năng cung cấp cho nhân dân và lực lượng vũ trang của mình một lý do chính đáng để tham chiến. Thật không may cho Mỹ và tương lai của người dân miền Nam Việt Nam, những người Cộng sản đã thành công hơn: Bằng cách đánh vào tâm lý chủ nghĩa dân tộc chống “Đế quốc Mỹ” xâm lược và hứa hẹn sẽ cải tổ hệ thống kinh tế xã hội thối nát khiến cho các công dân vĩnh viễn mắc kẹt trong nghèo đói, họ đã thuyết phục hàng triệu người chiến đấu và chết vì họ.

Sự bất cân xứng này là trở ngại không thể vượt qua trên con đường đi đến chiến thắng ở Việt Nam. Đánh bại du kích Cộng sản hẳn đã là chuyện dễ dàng nếu người dân miền Nam không giúp họ ẩn nấp trong chính cộng đồng của mình. Thay vào đó, quân Mỹ và lính miền Nam chỉ có thể mò mẫm đi sau kẻ thù, và hiếm khi có thể đối đầu trực tiếp với nhóm này, trừ phi họ muốn thế.

Và ngay cả khi lính Mỹ bắt đầu đổ bộ vào Việt Nam năm 1965, thực chất quân đội miền Nam đã có đủ quân số để có thể tự bảo vệ mình. Rốt cuộc thì lực lượng miền Nam đông hơn lực lượng Cộng sản, được trang bị tốt hơn nhiều, có hỏa lực vượt trội và có lợi thế đáng kể về khả năng cơ động nhờ máy bay vận tải và máy bay trực thăng. Nhưng gót chân Achilles của họ chính là ý chí chiến đấu quá yếu – và thiếu sót này đã không bao giờ được khắc phục.

Vài năm sau khi chiến tranh kết thúc, Trung tướng Arthur S. Collins, chỉ huy toàn bộ quân Mỹ ở khu vực Tây Nguyên từ tháng 02/1970 đến tháng 01/1971, nói với một sử gia quân đội: “Tôi không nghĩ là có cách nào đó để Nam Việt Nam có thể tồn tại, bất kể chúng ta có làm gì cho họ đi chăng nữa. Theo quan điểm của tôi, điểm chí mạng nằm ở câu trả lời mà tôi nghe từ các sĩ quan cấp dưới, hầu như không có ngoại lệ, rằng con trai của họ đang theo học ở Pháp, Thụy Sĩ hoặc Mỹ. Nếu họ không chiến đấu cho miền Nam, thì ai sẽ làm điều đó?”

Tất nhiên, bất chấp điểm yếu cơ bản của đồng minh, Mỹ có thể vẫn giành chiến thắng, nếu họ sẵn sàng huy động đầy đủ sức mạnh quốc gia của chính mình. Nhưng điều đó sẽ đòi hỏi phải tăng thuế, huy động lính dự bị, cùng với nhiều hy sinh khác mà Tổng thống Lyndon Johnson không còn dám yêu cầu từ người dân Mỹ nữa.

Trong một bài báo gần đây của New York Times, Moyar, nhà sử học xét lại, đã giải thích về “sự vắng mặt của tổng thống kiêm đội trưởng đội cổ vũ” và quy trách nhiệm cho Johnson vì đã không tạo ra thứ “tâm lý chiến” có thể khiến Việt Nam trở thành một cuộc thập tự chinh của lòng yêu nước (và giúp bịt miệng các nhà phê bình chiến tranh). Moyar lập luận, “Việc công chúng quay lưng với cuộc chiến không phải là điều không thể tránh khỏi; đúng hơn, đó là kết quả của sự thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc giải thích và thuyết phục người Mỹ ủng hộ nó.”

Nhưng Johnson là chính trị gia sắc sảo nhất của Nhà Trắng trong thế kỷ 20, và ông biết rằng mình đang đối mặt với một nghịch lý. Nếu Chiến tranh Việt Nam không yêu cầu nước Mỹ hy sinh quá nhiều và mọi người đều tin rằng chiến thắng là rất gần, thì hầu hết người Mỹ sẽ ủng hộ nó. Nhưng nếu Johnson công khai thừa nhận rằng Nam Việt Nam chẳng thể tồn tại nếu không có sự cam kết đầy đủ của Mỹ, ông hiểu rằng mọi ủng hộ cũng sẽ tan biến.

Một động thái như vậy sẽ tiết lộ những sự thật trần trụi của chiến tranh: rằng chính phủ Nam Việt Nam là một chế độ độc tài chuyên chế, rằng quân đội của họ không muốn chiến đấu, rằng phần lớn dân số sẵn sàng ủng hộ Cộng sản, rằng Bắc Việt đang từng bước leo thang, rằng Johnson đã cam kết tham chiến mà không có kế hoạch giành chiến thắng, và Lầu Năm Góc chẳng hề có ý tưởng rõ ràng về việc khi nào họ mới có thể giành chiến thắng. Johnson biết rõ rằng nếu công chúng chống lại chiến tranh, họ cũng sẽ chối bỏ quyền lãnh đạo của ông, cũng như từ chối chính sách đối nội “Xã hội Vĩ đại” (Great Society) đã từng được yêu mến.

Vì vậy, giống như các tổng thống khác trước và sau ông, Johnson đã cố gắng che giấu thực tế ảm đạm tại Việt Nam khỏi mắt người Mỹ và cố tình đánh lừa họ về thời hạn và chi phí của cuộc chiến. Ông không muốn tạo ra một tâm lý thời chiến – hay kêu gọi huy động toàn lực. Cộng sản đã chẳng cần các nhà báo hay những đoàn người biểu tình chống chiến tranh để vạch trần rằng sự ủng hộ của công chúng đối với cuộc chiến là rất mong manh. Việc Johnson từ chối tăng thuế hay huy động lính dự bị đã làm rõ mọi chuyện ngay từ đầu – hệt như việc chúng ta không áp dụng thuế mới hoặc huy động lính nhập ngũ kể từ sự kiện 11/9 chính là dấu hiệu cho kẻ thù chúng ta biết rằng ý chí chiến đấu của nước Mỹ đang rất yếu.

Mặc dù Mỹ chắc chắn có đủ phương tiện để thắng thế ở Việt Nam, nhưng cuộc chiến không thể vượt qua mức độ cam kết và hy sinh mà đất nước chúng ta sẵn sàng chấp nhận. Như nhà sử học nổi tiếng George Herring đã nói, cuộc chiến này “không thể thắng được theo bất cứ nghĩa nào với một cái giá đạo đức hay vật chất mà hầu hết người Mỹ coi là chấp nhận được.”

Có lẽ bài học quan trọng ở Việt Nam là nếu những lý do gây chiến không đủ thuyết phục để các nhà lãnh đạo của chúng ta yêu cầu tất cả người Mỹ phải hy sinh nhằm theo đuổi chiến thắng, thì có lẽ đừng nên tham chiến. Chúng ta không nên đặt gánh nặng hy sinh lên chỉ những người dám mạo hiểm mạng sống và thân thể mình cho đất nước ở một chiến trường nước ngoài xa xôi nào đó.

Kevin Boylan là nhà sử học quân sự tại Đại học Wisconsin-Oshkosh và là tác giả của cuốn “Losing Binh Dinh: The Failure of Pacification and Vietnamization, 1969-1971.” Ông làm việc cho Vụ Kế hoạch Chiến tranh của Bộ Quốc phòng và Quân đội Mỹ từ năm 1995 đến 2005.

Nhiều cựu binh Mỹ đã quay trở lại Việt Nam sau chiến tranh và cũng rất nhiều người chưa một lần dám quay trở lại vì không thể vượt qua được những ký ức kinh hoàng của một cuộc chiến phi nghĩa.
*

Đã 45 năm trôi qua kể từ ngày cuộc chiến của người Mỹ trên đất nước Việt Nam kết thúc, thế nhưng với nhiều cựu chiến binh Mỹ sống sót trở về, dường như những ám ảnh về cuộc chiến ở đất nước Đông Nam Á nhỏ bé vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai.

Nhiều cựu binh Mỹ đã quay trở lại Việt Nam sau chiến tranh và cũng rất nhiều người chưa một lần dám quay trở lại vì không thể vượt qua được những ký ức kinh hoàng ngày ấy….

Có rất nhiều người trong số họ, suốt những năm qua, đã trở thành các cựu binh vì hòa bình, nỗ lực không mệt mỏi, cố gắng hàn gắn vết thương chiến tranh.

Những ngày này, lệnh phong tỏa vì đại dịch COVID -19 tại New York đã khiến cuộc hội ngộ của tôi với những người Mỹ phản chiến một thời đành lỡ dở và chuyển thành cuộc trò chuyện qua điện thoại, nhắc nhớ lại cuộc chiến không thể quên.

Khi nhắc đến ký ức chiến tranh Việt Nam, Doug Rawlings chưa bao giờ quên cái ngày định mệnh năm 1969 khi ông được gọi nhập ngũ và được đưa đến Việt Nam cho đến tháng 8/1970.

Sự bạo tàn của quân đội Mỹ lúc đó là điều ông mãi không thể quên…. Đánh đập, hãm hiếp, giết chóc….Có lẽ ông không thể và không muốn nói thêm về những ngày ấy mà thay vào đó cho tôi xem bài thơ do ông sáng tác “Unexploded Ordnance: A ballad” (tạm dịch: Quả bom không nổ - một khúc ca), một bài thơ ngập trong nỗi ám ảnh về những gì quân đội Mỹ đã gây ra đối với người dân Việt Nam, về sự quả báo “gieo gì gặt nấy” cho những gì họ đã làm ở Việt Nam.

Thế nhưng khi nhắc đến Hội Cựu chiến binh vì Hòa bình mà ông là một trong 5 thành viên sáng lập với mục đích xóa bỏ chiến tranh, xóa bỏ hận thù, giờ đã có 6.000-7.000 thành viên với khoảng 130 chi hội trên khắp nước Mỹ, dường như ông được giải tỏa phần nào.

Khi tôi hỏi ông muốn nói gì với người dân Việt Nam nhân 45 năm cuộc chiến của người Mỹ kết thúc ở Việt Nam ngày 30/4, ông tâm sự: “Lúc đó, tôi chỉ là một sinh viên 22 tuổi bị bắt đi lính. Đáng lẽ tôi phải chống đối không đi, nhưng chính tôi đã thiếu can đảm để chống lại điều đó. Tôi hối hận về quyết định đó vô cùng. Điều làm tôi đau đớn nhất chính là những đau thương chúng tôi đã gây ra cho trẻ em Việt Nam, không phải chỉ về thể xác, chỉ về tinh thần, mà cả về tâm lý nữa. Nỗi đau này thêm nhức nhối khi chính tôi có gia đình, có con và nuôi dạy con mình. Đó cũng chính là lý do vì sao tôi đã cùng sáng lập hội cựu chiến binh với mong muốn xóa bỏ hết chiến tranh.”

Khác với Doug Rawlings, một cựu binh khác, Nick Mottern, lại là người từng tình nguyện sang chiến trường Việt Nam vào năm 1962.

Giờ đã ở tuổi 80, ông vẫn nói với tôi rành rọt qua điện thoại rằng dù chưa từng giết hại một mạng người nào trong 2 năm tại ngũ ở Sài Gòn vào năm 1962-1963, và một năm làm nhà báo cho tờ tiếng Anh Saigon Post vào năm 1964. Nhưng những gì nhìn thấy trong cuộc chiến khiến ông mãi không thể thôi day dứt và hổ thẹn.

Mặc dù là một thành viên trong Hội Cựu chiến binh vì Hòa bình tại New York đã lâu, đã rất tích cực tham gia nhiều hoạt động chống chiến tranh sau này, ông chưa một lần lựa chọn quay trở lại Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc.

“Bạn biết đấy, thời đó tôi tình nguyện tới Việt Nam bởi chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những bộ phim Hollywood về người Mỹ anh hùng trong Thế chiến thứ Hai và chúng tôi cũng được "nhồi" rất nhiều về Chiến tranh Lạnh nên sẵn sàng chấp nhận lời giải thích của Chính phủ Mỹ... Khi đó, tôi có biết gì về Việt Nam và lịch sử Việt Nam đâu.”

Đến lúc này, gần 60 năm sau, nhưng hình ảnh bom nổ, những hàng dài người chết nằm san sát trên cỏ, có những người còn rất rất trẻ… vẫn ám ảnh rõ mồn một trong tâm trí ông.

Khi trở về quê nhà Mỹ cuối năm 1964 và suốt năm 1965 sau đó, chính Nick Mottern đã tận mắt đối mặt với phong trào phản chiến lan rộng ở nước Mỹ với các cuộc biểu tình, tuần hành ở khắp nơi.

Tới lúc đó, chàng sinh viên ngành báo chí Nick Mottern của Đại học Columbia mới ngỡ ngàng nhận ra cuộc chiến mà ông đã tham gia không phải là "chính nghĩa" như những gì ông vẫn được tuyên truyền.

Từ đó đến nay, Nick Mottern đã dành phần lớn thời gian của mình cho các hoạt động phản chiến, mà gần đây nhất, ông là một trong những người mạnh mẽ phản đối kiểu chiến tranh tàng hình, không người lái của Mỹ (drone warfare).

“Tôi biết rất nhiều cựu binh Mỹ đã trở lại Việt Nam sau chiến tranh và tất cả đều rất hối hận vì những gì mình đã từng làm ở Việt Nam. Còn tôi vẫn không thể quay lại bởi nỗi hổ thẹn chính mình đã xin tình nguyện tham gia chiến tranh,” giọng ông trầm xuống khi nói với tôi.

“Tôi thực lòng không muốn phiền bất cứ người Việt Nam nào, dù chỉ một chút, phải mở lời nói với tôi, kể cả là để tha thứ cho tôi, bởi chính tôi đã thấy những gì người Mỹ chúng tôi đã làm đối với người dân Việt Nam là sự dã man, tàn bạo khủng khiếp không thể diễn tả nổi bằng lời.." Ông kết thúc cuộc nói chuyện bằng những lời buồn bã như thế. Nhưng rồi lại nói thêm rằng, ông rất muốn gặp tôi để nói vài câu khi lệnh phong tỏa COVID-19 của New York kết thúc.

Xem thêm: Tân tam quốc diễn nghĩa tập 36, tân tam quốc diễn nghĩa

Còn tôi, chợt nhớ lại câu ngạn ngữ: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại,” như cách người Việt Nam chúng tôi đã "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai"./.