Lâm Bích Thủy – trưởng nữ nhà thơ Yến Lan, một hôm hỏi tôi: “Anh ơi! Em nghe câu ca dao về Bình định – có người thì nói: “Quảng Nam hay cãi, Quàng Ngãi nằm co, Bình Định hay lo, Thừa Thiên ních hết” – lại có người bảo “Quảng Ngãi hay lo,” còn “ Bình Định ta nằm co” – câu nào đúng vậy?”

Tôi biết Bích Thủy xa quê Bình Định từ năm lên mười, sau 75 – lại tiếp tục sống ở Saigon, nên mới “thắc măc”…kì quặt như vậy. Nhân buổi sáng chủ nhật được thư thả – tôi xin góp dôi điều, trước là đẻ trả lời cho Bích Thủy – và sau chia sẻ là cùng quý bà con – cho vui!

Vốn là ngưởi yêu quý văn chương truyền khẩu – từ thuở còn là học sinh trung học, tôi đã có đọc (và thuộc) một số câu ca dao (và tục ngữ) của các vùng miền. Tôi có biết đến câu ca dao nói về “tính chất” của người dân bốn miền như vừa đề cập trên – có nơi ghi là: “ Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, Bình Định so đo, Thừa Thiên ních hết”.

Bạn đang xem: Quảng nam hay cãi quảng ngãi hay lo

 Nhưng theo nhà nghiên cứu biên khảo (đã có trên hai mươi tác phầm – phần lớn viết về con người & quê hương Bình Đinh) Đặng Quý Địch, thì : “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, Bình Định hay loThừa Thiên ních hết” mới thật chính xác!

Tôi có góp ý vời Ông: “Bình Định so đo – bởi vì “người Bình Định ưa “phân bì”, so sánh. hơn thua, kèn cựa với nhau” –cho ý nghĩa về tính chất của người Bình Định được ,,,”giàm nhẹ” ( hơn là “hay lo”!) cho dầu, tôi đã nghe câu ca dao chính xác như vậy từ lâu; nhưng Ông Đăng Quý Địch không chịu! Có lẽ, tôi chỉ là người “viết truyện” (và làm thơ lai rai chơi khi thích) chứ không thể là người “nghiên cứu, biên khảo” nghiêm túc? Tôi còn có “tính thiên vị” người dân Xứ Nẫu của mình, nên đã trả lời cho Bích Thủy như vậy!

Theo ý nghĩa của câu ca dao – chúng ta có thể đoán biết – câu ca dao nầy dã được “truyền khẩu” ngay dưới triều nhà Nguyễn (1802-1945): Vùng miền Quảng Nam – nơi sản sinh nhiều nhà cách mạng, học rộng – nhìn xa, đã luôn “phản kháng” triều đình (và sau nầy là chế độ thực dân Pháp) – nên “hay cãi lại” (tranh luận hơn thua/ đúng sai) không ngoan ngoãn, dễ sai khiến! Miền Quảng Ngãi thì “hay co” chính là sự“co cưỡng”, không chịu khuất phục, có thể dùng từ bình dân một chút là…”cứng đầu”! Trong lúc người Bình Định bản chất vốn đã “thàng hậu” ( tạm hiểu là hiền hậu, chất phác, cầu an) lại chịu thêm định kiến của nhà Nguyễn về nhà Tây Sơn, về phong trào kháng thuế, phong trào cần vương, phong trào chống Pháp – nhất là“mối liên hệ mật thiết của các gia đình hào phú & người dân Bình Định với phong trào Tây Sơn” – nên muốn yên thân, đành phải “lo lót cho các quan” mà thôi! (Nếu không sẽ bị “gây khó dễ” nầy nọ – có thể dẫn đến tù tội khi không được lòng “các quan” trên!). Người dân Bình Đinh trong qúa khứ đã “lo” cho ai? (câu ca dao trên đã nói rõ rồi!).

Người Thừa Thiên ( Huế) tuy sống trong vùng đất mà về mặt kinh tế không được phong phú, đất hẹp, không phải là vùng giàu có về nông nghiệp, thương nghiệp – nhưng họ có nhiều điểm thuận lợi hơn các vùng miền xa Kinh đô khác: Có trường học lớn, có trường thi cho cả nước, có thầy giõi, có người thân nhiều đời thay nhau làm quan (từ to đén nhỏ) – do đó, đã đễ dàng trong thi cử, và tiến thân làm quan (nói chung các lãnh vực). Nhìn lại, trên khắp miền đất nước – người Thừa Thiên – Huế đi làm quan các nơi khá đông. Có nơi, không có người dân bản địa được trìều đình cử ra làm quan. vì “không có học vị, phẩm hàm” tuy rất có tài về văn võ! Dưới chế độ phong kiến – “ý quan là ý trồi” – ai dám cưỡng lại?

Một lần – Ông Đặng Quý Địch nhắc cho tôi nghe về chi tiết một bài viết của nhà nghiên cứu- biên khảo Tạ Chí Đại Trường (người Bình Định) trên tạp chí Bách Khoa (khoảng năm 71-72). Ông Tạ Chí Đại Trường, vì “bực mình & cay cú” (cũng vừa dí dỏm chua cay)- nên đã “viết lại” vế sau của câu ca dao là: “ Bình Định…to, Thừa Thiên…”(!). Xem như vậy – không những chỉ “đúng” dưới các triều nhà Nguyễn phong kiến – mà còn kéo dài sau 54 – dưới triều “nhà Ngô” cũng thế, cho nên một nhà nghiên cứu biên khảo uy tín * (và dẳng cấp) như Ông Tạ Chí Đạ Trường cũng phải…”cay cú” như vậy!

Nhưng ca dao – vẫn là ca dao, chúng ta phải tôn trong sự thật của một thời đã qua trong lịch sử! Giá trị của ca dao (hay tục ngữ) còn lệ thuộc vào dòng thời gian, chuyễn biến xã hôi, lịch sử, văn hóa của nhiều thời đại kế tiếp. Trong xã hội tiến bộ vượt bậc ngày nay về các mặt khoa học kỹ thuật, tư tưởng, văn hóa, đời sống – chúng ta đang dần dàn “đổi mới” tất cả! Chúng ta sẽ thiết lập một xã hội công bình, văn mình và hạnh phúc hơn!

Người Quảng Nam dù là dân chữ nghĩa hay nhà nông cũng đều ưa lý sự, gặp chuyện chi cũng cãi hoặc có ý kiến khác. Từ đó hình thành một cốt cách khiến người ta nghĩ tốt về nó cũng nhiều nhưng nghĩ xấu cũng không ít: “Quảng Nam hay cãi”.

Cãi để… đổi mới

Đã có nhiều lý giải về hiện tượng hay cãi của người Quảng Nam. Có ý kiến cho rằng nó xuất phát từ chuyện hai học giả Quảng Nam là Phan Khôi và Huỳnh Thúc Kháng (cùng nhà Nho Ngô Đức Kế) công kích ông Phạm Quỳnh - chủ nhiệm báo Nam Phong - từ năm 1924 đến năm 1930, sau khi ông chủ báo họ Phạm tổ chức đêm suy tôn Truyện Kiều tại hội quán Khai Trí Tiến Đức ở Hà Nội vào năm 1924. Trong đêm đó, ông Quỳnh diễn thuyết ca ngợi Truyện Kiều là “quốc hoa, quốc hồn, quốc túy”. Bị “đánh” rát, ông Quỳnh chỉ im lặng. Sau khi rời Hà Nội vào Sài Gòn, Phan Khôi khơi lại chuyện cũ, mạnh miệng mắng sự phớt lờ này là “học phiệt”: “Tôi chẳng nói gần nói xa chi hết; tôi nói ngay rằng hạng người học phiệt ở ta chẳng bao lăm người, mà Phạm Quỳnh tiên sinh là một” (Phụ Nữ Tân Văn, Sài Gòn, 1930).

Rồi chính hai nhà báo trứ danh người Quảng Nam này khoảng 10 năm sau lại đăng đàn cãi nhau về phong trào Thơ mới. Phan Khôi sáng tác bài “Tình già”, khởi xướng trào lưu thơ mới, chê thơ cũ là “bó buộc và làm mất cả sanh thú”; ngược lại, nhà Nho chí sĩ họ Huỳnh thì mạt sát Phan Khôi. Cuộc bút chiến của hai cây viết đất Quảng diễn ra trên nhiều tờ báo, tập trung sự chú ý lớn của giới học thuật từ những năm 1941 trở đi. Đây là một căn cớ để lý giải vì sao “Quảng Nam hay cãi”.

Ý kiến khác dựa vào chính sử, được cho là lý giải xác đáng hơn. Cụ thể, nhiều bản của Đại Nam nhất thống chí triều Nguyễn đúc kết các đặc tính của người Quảng qua thực tế. Ví dụ, bản in vào triều vua Duy Tân đánh giá:“… sĩ phu có khí tiết cứng cỏi bạo nói, nhưng vì thổ lực không hậu mà thế nước chảy gấp nên tính người hay nóng nảy, ít trầm tính, duy có người nào có học vấn uyên thâm mới không bị phong khí ràng buộc”. Phải chăng những đúc kết ấy chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phong trào Duy Tân (1906-1908) do chí sĩ đất Quảng Nam Phan Châu Trinh khởi xướng, trong đó có cuộc đấu tranh đòi giảm sưu thuế ở Trung Kỳ (1908) làm rúng động chính phủ bảo hộ (Pháp) và chính phủ bù nhìn Nam triều lúc bấy giờ?

Khởi nguồn từ Đại Lộc (Quảng Nam), những cuộc tranh luận nảy lửa giữa người dân xứ Quảng với các quan Tây và tri phủ, đề đốc tay sai người Việt… được nhiều chứng nhân - trong đó có cả người Pháp - ghi chép, kể lại trong một số tài liệu, rất thú vị. Phong trào này được xem là một cuộc dân biến lịch sử, lan ra 10 tỉnh, từ Bình Thuận đến Thanh Hóa, dù bị người Pháp điều binh đàn áp đẫm máu, nhiều chí sĩ bị hành quyết và rất đông người dân bị tra khảo song chẳng thể khuất phục ý chí sắt đá của con người xứ Quảng: không chịu im lặng trước bất công, không cúi đầu trước bạo quyền; phải lên tiếng đấu tranh, phải hành động đòi lại công bằng.

Cái sự “cãi” ấy chẳng phải cãi chày cãi cối hay lý sự cùn mà rất đáng trọng. Ngẫm suy, nó chỉ nhằm mục đích dân chủ và đổi mới. Cãi mới đem lại sự dân chủ. Có “đấu” thì mới làm nên cuộc duy tân, cải cách. Giữa bối cảnh đất nước tối tăm vì bị đô hộ, người dân lầm than dưới ách thực dân, Phong trào Duy Tân của cụ Phan Tây Hồ hướng tới hiện thực hóa những mục tiêu cao cả: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Mở mang dân trí, xây dựng xã hội dân chủ để tiến tới tự cường rồi tự chủ, độc lập, ấm no, há chẳng phải là tư duy đổi mới quá sâu sắc hay sao?

*

Tư tưởng thời đại, sống mãi

Trong huyết quản của người Quảng Nam, tinh thần phản biện và tranh đấu luôn tuôn chảy. Nó được thể hiện bằng nhiều cách và chắc chắn có sự ảnh hưởng lẫn nhau, truyền thừa cho nhau: thế hệ sau theo thế hệ trước, con cháu học hỏi ông cha, học trò nối bước người thầy.

Tiêu biểu của sự truyền thừa này là hai tên tuổi lừng lẫy cùng quê Điện Bàn: Phạm Phú Thứ (1821-1882) và Hoàng Tụy (1927-2019). Dẫu sống cách nhau cả thế kỷ, thời cuộc cũng rất khác nhau nhưng hai ông có điểm chung: tài giỏi, thẳng thắn, yêu nước.


Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862 với nhiều điều khoản thất thế cho triều Nguyễn, năm 1863 vua Tự Đức phái đại thần Phan Thanh Giản làm chánh sứ sang Pháp xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Phạm Phú Thứ được cử làm phó sứ đi cùng. Ông sang trời Tây không chỉ để thương lượng mà còn chủ động tìm hiểu, học hỏi, ghi chép rất nhiều thứ tiến bộ của họ.

Năm 1864, sứ bộ về nước, Phạm Phú Thứ soạn và dâng lên nhà vua biểu tấu, thúc giục sớm cải cách, học tập và phát triển công nghiệp theo cách thức của Pháp và Y Pha Nho (Tây Ban Nha). Hai cuốn “Tây hành nhật ký” và “Tây phù thi thảo” ông trình cho vua Tự Đức trong đó ghi chép những điều mắt thấy tai nghe về cách làm tiến bộ và thành quả tân thời của người Âu, khuyến nghị nước Nam ta làm theo.

Tư tưởng và tầm nhìn của Phạm Phú Thứ đã vượt xa tri thức thời đại mà ông đang sống rồi! Chưa cần phải chờ đến khi sang Tây Âu, lúc làm án sát Thanh Hóa, nhà Nho họ Phạm đã kiến nghị vua đóng tàu bọc đồng để phục vụ vận tải thủy và giao thương. Tàu đồng Thụy Nhạc ra đời là nhờ đầu óc Phạm Phú Thứ!

Tròn 140 năm sau kể từ bản trình tấu 1864, một hậu bối Quảng Nam của Phạm Phú Thứ là Hoàng Tụy cũng làm dậy sóng giới trí thức với bài viết thẳng thừng về giáo dục (công bố năm 2004). Lúc này, giáo dục và đào tạo nước nhà đối mặt hàng loạt vấn đề nhức nhối, cấp thiết phải đổi mới. Theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ chuẩn bị một báo cáo đặc biệt về giáo dục đào tạo. Báo cáo này được dự thảo nhiều lần, hầu hết các nội dung và luận điểm trong dự thảo báo cáo đều bị Giáo sư Hoàng Tụy phản biện, bác bỏ. Theo ông, ngành giáo dục chưa dám nhìn thẳng vào thực tế “lay lắt”, thiếu hẳn tư duy đổi mới, sáng tạo và đối diện nguy cơ khủng hoảng kéo dài.

Và 5 năm sau đó (2009), ông tiếp tục có bài viết rất dữ dội “Giáo dục: Xin cho tôi nói thẳng” (1), chỉ rõ thực trạng yếu kém, cảnh báo nhiều vấn đề và đưa ra khuyến nghị rất cụ thể. Ông nêu “thẳng như ruột ngựa”: “Chỉ những ai quá vô tâm với tình hình đất nước mới có thể yên lòng trước tình hình giáo dục hiện nay”(2).

Xem thêm: Cách kiểm tra thông tin thuê bao vinaphone tra sau đơn giản, tra cứu thuê bao hợp lệ thông tin

Năm 2019 vừa khép lại, chúng ta chia tay cha đẻ lý thuyết toán học “Tối ưu toàn cục”. Người cháu của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu nối bước tiền nhân đồng hương Phạm Phú Thứ về bên kia thế giới nhưng những “tượng đài hay cãi” đáng kính ấy như vẫn ở lại với chúng ta, tiếp tục được thắp lửa bởi đòi hỏi của thực tế đất nước về công bằng, dân chủ và đổi mới luôn còn đó, mãi thôi thúc thế hệ hôm nay.

Vậy là đã rõ, “Quảng Nam hay cãi” không còn thuần túy là một cốt cách vùng miền, mà cao hơn thế, cãi chính là tranh luận, là phản biện với khát vọng dân chủ, khát vọng đổi mới!